Lịch sử Cuba

Theo văn tịch thì lịch sử Cuba bắt đầu ngày 28 tháng 10 năm 1492, khi Colombo nhận diện đảo này trong chuyến đi thứ nhất của ông và tuyên bố chủ quyền nhân danh triều đình Tây Ban Nha.[10] (Điều này vẫn còn chưa chắc chắn và là một vấn đề chưa ngã ngũ.[11]) Hòn đảo này trước đó đã được thổ dân châu Mỹ, bộ tộc TaínoCiboney xuất xứ từ Nam Mỹ nhiều thế kỷ trước đến lập nghiệp. Người Taíno và người Ciboney (cũng được viết là Siboney các quốc gia Taino mới) đều là những cư dân biết trồng cấy cùng săn bắn-hái lượm; có thuyết cho rằng kỹ thuật đồ đồng đã khá phát triển dựa trên số di vật phát hiện được[12] trong các di chỉ Taino.

Bờ biển Cuba được Sebastián de Ocampo vẽ bản đồ đầy đủ vào năm 1511, và cũng trong năm ấy thôn ấp của nhóm di dân Tây Ban Nha đầu tiên đến lập nghiệp được Diego Velázquez de Cuéllar khai sáng tại Baracoa. Các thị trấn khác như La Habana (thành lập năm 1515) nhanh chóng mọc lên. Người Tây Ban Nha, như họ đã hành động trên khắp châu Mỹ, đàn áp và bắt làm nô lệ gần 100.000 người bản xứ chống việc cải đạo theo Công giáo trên đảo. Trong một thế kỷ vì chính sách lao động cưỡng bức, diệt chủng cộng với những ảnh hưởng từ các dịch bệnh được đem tới từ châu Âu hầu như các yếu tố quốc gia trên hòn đảo đã biến mất, dù một số khía cạnh di sản bản xứ vẫn còn lại một phần qua sự gia tăng đáng kể của số người Mestizo.[13][14] Với sự phá hủy xã hội bản xứ, những người định cư bắt đầu khai thác những nô lệ châu Phi, họ đã có khả năng chống chịu tốt hơn với các loại bệnh dịch từ thế giới cũ, và nhanh chóng chiếm một phần đáng kể dân số.

Thuộc địa

Cuba thuộc quyền sở hữu của người Tây Ban Nha trong 388 năm, được cai trị bởi một vị Toàn quyền tại La Habana, với một nền kinh tế dựa trên trồng trọt nông nghiệp và xuất khẩu đường, cà phêthuốc lá tới Châu Âu và sau này là tới Bắc Mỹ. Nước này bị Anh Quốc chiếm năm 1762, nhưng quay trở lại dưới quyền Tây Ban Nha vào năm sau. Dân số Tây Ban Nha đã tăng mạnh sau khi người định cư Tây Ban Nha rời Haiti khi lãnh thổ này được nhượng lại cho Pháp. Tương tự như tại các vùng khác của Đế chế Tây Ban Nha, một giới chủ đất giàu có với dòng máu Tây Ban Nha nắm quyền kinh tế và xã hội, tiếp đó là giới bình dân tiểu điền chủ người lai, pha trộn (Mestizo), giới lao động và những nô lệ da đen nguồn gốc châu Phi.

Trong thập niên 1820, khi những vùng khác của Đế chế Tây Ban Nha tại Mỹ Latinh nổi loạn và thành lập nên các nhà nước độc lập, Cuba tiếp tục trung thành, dù đã có một số khích động độc lập. Điều này một phần bởi sự thịnh vượng của những người định cư Cuba phụ thuộc vào thương mại xuất khẩu tới châu Âu, một phần bởi lo ngại về một cuộc nổi loạn nô lệ (như đã xảy ra tại Haiti) nếu người Tây Ban Nha rút đi và một phần bởi người Cuba e ngại sự lớn mạnh của Hoa Kỳ hơn là họ ghét chính quyền cai trị thuộc địa Tây Ban Nha.

Một yếu tố khác là quá trình di cư liên tục của người Tây Ban Nha tới Cuba từ mọi tầng lớp xã hội, một khuynh hướng nhân khẩu đã không còn tồn tại tại các vùng thuộc địa khác của Tây Ban Nha từ nhiều thập kỷ trước đó góp phần làm giảm sự phát triển bản sắc quốc gia Cuba.

Sự gần gũi địa lý của Cuba với Hoa Kỳ gây ảnh hưởng rất mạnh trên lịch sử nước này. Trong suốt thế kỷ XIX, các chính trị gia phương Nam Hoa Kỳ đã âm mưu sáp nhập hòn đảo này và coi đó là công cụ để tăng cường sức mạnh cho phe ủng hộ chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ, và luôn có một đảng tại Cuba ủng hộ chính sách đó. Năm 1848, một cuộc nổi dậy ủng hộ sáp nhập đã bị đập tan và đã có nhiều nỗ lực khác của các kẻ muốn ủng hộ sáp nhập nhằm xâm lược hòn đảo này từ Florida. Cũng có nhiều đề xuất tại Hoa Kỳ nhằm mua Cuba từ Tây Ban Nha. Trong mùa hè năm 1848, Tổng thống James Knox Polk đã bí mật cho phép đại sứ của mình tại Tây Ban Nha, Romulus Mitchell Saunders, đàm phán mua Cuba và đưa ra giá tới 100 triệu dollar, một khoản tiền lớn đáng ngạc nhiên ở thời điểm đó cho một vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, Tây Ban Nha đã từ chối vì không muốn mất một trong những vùng lãnh thổ cuối cùng của mình tại châu Mỹ.

Sau cuộc Nội chiến Mỹ với thắng lợi của phương Bắc góp phần chấm dứt nỗi lo sáp nhập của phái ủng hộ chế độ nô lệ, làn sóng đòi độc lập tại Cuba xuất hiện trở lại, dẫn tới một cuộc nổi dậy năm 1868 do Carlos Manuel de Céspedes, một luật sư và chủ đất giàu có từ tỉnh Oriente, người đã trả tự do cho các nô lệ của mình, lãnh đạo. Ông tuyên chiến và được phong là Tổng thống Cộng hòa Cuba. Sự kiện này đã dẫn đến một cuộc xung đột kéo dài được gọi là cuộc Chiến tranh Mười Năm giữa các lực lượng ủng hộ độc lập và Quân đội Tây Ban Nha, với đồng minh là những kẻ phản đối độc lập người địa phương. Người Mỹ đồng tình với mong muốn độc lập của Cuba, nhưng Hoa Kỳ không can thiệp quân sự hay thậm chí là công nhận tính hợp pháp của chính phủ Cuba, dù nhiều quốc gia châu Âu và Mỹ Latinh đã làm như vậy.[15] Năm 1878, Hòa bình Zanjon chấm dứt cuộc xung đột, với lời hứa của Tây Ban Nha trao quyền tự trị rộng rãi hơn cho Cuba.

Hòn đảo này đã kiệt quệ sau cuộc xung đột dai dẳng đó và tình cảm độc lập tạm thời lắng dịu. Cũng có mối lo ngại rằng nếu người Tây Ban Nha rút đi hay nếu xung đột kéo dài, chủ nghĩa bành trướng Mỹ sẽ phát triển dẫn tới sự sáp nhập hòn đảo này. Trong giai đoạn 1879–1880, nhà yêu nước Cuba Calixto Garcia đã tìm cách khởi động một cuộc chiến khác, được gọi là "la guerra chiquita" (cuộc chiến nhỏ) trong lịch sử Cuba nhưng không nhận được nhiều sự hỗ trợ.[16] Một phần để vì áp lực của Mỹ, chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ năm 1886, cộng đồng thiểu số gốc Phi vẫn bị đàn áp cả về kinh tế và xã hội, dù đã được chính thức trao quyền bình đẳng năm 1893. Trong giai đoạn này, sự nghèo khổ tại các vùng nông thôn ở Tây Ban Nha do Cuộc cách mạng Tây Ban Nha năm 1868 và những hậu quả của nó khiến làn sóng người Tây Ban Nha di cư tới Cuba càng tăng thêm.

Trong thập niên 1890, các phong trào ủng hộ độc lập hồi sinh, được thúc đẩy bởi sự oán giận do các biện pháp hạn chế áp đặt lên thương mại Cuba và tình trạng thù địch với chính sách quản lý ngày càng phân biệt đối xử và không hiệu của Tây Ban Nha. Rất ít lời hứa cải cách kinh tế theo Hiệp ước Zanjon được chính phủ Tây Ban Nha thực hiện. Tháng 4 năm 1895, một cuộc chiến tranh mới nổ ra, do tác giả và là nhà thơ José Martí người đã tổ chức chiến tranh trong giai đoạn mười năm sống tha hương tại Hoa Kỳ lãnh đạo. Ông tuyên bố Cuba trở thành một nước Cộng hòa độc lập — Martí bị giết hại tại Dos Rios ngay sau khi đặt chân tới Cuba cùng lực lượng viễn chinh phía đông. Cái chết đã khiến ông trở thành bất tử và được coi là một anh hùng quốc gia Cuba.

Các lực lượng vũ trang Tây Ban Nha với tổng số 200.000 quân chỉ phải chống lại một lực lượng nổi dậy nhỏ chủ yếu sử dụng các chiến thuật du kích và phá hoại, và quân Tây Ban Nha thường trả đũa bằng các chiến dịch đàn áp. Tướng Valeriano Weyler được chỉ định làm Toàn quyền quân sự của Cuba, và với một biện pháp hà khắc ông dồn người dân thôn quê vào cái ông gọi là reconcentrados, được các nhà quan sát nước ngoài miêu tả như là các "thị trấn pháo đài." Các reconcentrados thường được coi là nguyên mẫu đầu tiên của các trại tập trung trong thế kỷ XX.[17] Những con số ước tính cho thấy khoảng 200.000 tới 400.000 thường dân Cuba đã chết vì đói khát và bệnh tật trong giai đoạn này tại các trại đó. Con số này đã được cả Hội Chữ thập Đỏ và Thượng nghị sĩ Mỹ, và cựu Thư ký An ninh Quốc gia, Redfield Proctor kiểm chứng. Hoa Kỳ và châu Âu phản đối những hành động của Tây Ban Nha trên hòn đảo.[18] Lo ngại sự can thiệp của Mỹ, Tây Ban Nha áp dụng một chính sách mang tính hòa giải hơn, hứa hẹn cho phép tự quản bởi một nghị viện qua bầu cử. Những người nổi dậy từ chối đề xuất đó và chiến tranh giành độc lập tiếp tục diễn ra. Một thời gian ngắn sau đó, ngày 15 thán 2 năm 1898, tàu chiến Mỹ Maine bất ngờ bị nổ tung tại cảng La Habana, làm thiệt mạng 266 người. Các lực lượng muốn can thiệp vào Cuba ở Hoa Kỳ muốn nhân cơ hội này buộc tội Tây Ban Nha làm nổ tàu chiến Mỹ (dù Tây Ban Nha không hề có động cơ để hành động như vậy và không có bằng chứng về sự liên can của Tây Ban Nha). Cùng với làn sóng tình cảm chủ nghĩa quốc gia, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua một nghị quyết kêu gọi can thiệp và Tổng thống William McKinley nhanh chóng đáp ứng.

Kết quả là cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha – Mỹ, trong đó, các lực lượng Mỹ đổ bộ xuống Cuba tháng 6 năm 1898 và nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự yếu ớt của Tây Ban Nha. Tháng 8, một hiệp ước hòa bình được ký kết, theo đó Tây Ban Nha đồng ý rút lui khỏi Cuba. Một số người ủng hộ ý kiến Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Cuba, trong khi những người khác muốn sáp nhập lãnh thổ này. Để dàn xếp, chính quyền McKinley đặt Cuba dưới một hiệp ước bảo hộ 20 năm của Hoa Kỳ. Phong trào độc lập tại Cuba phản đối kế hoạch này, nhưng không giống như Philippines, nơi các sự kiện cũng diễn ra tương tự, không hề có cuộc kháng chiến vũ trang nào xảy ra.

Độc lập

Theodore Roosevelt, người đã chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ và có một số tình cảm với phong trào độc lập, kế tục McKinley trở thành Tổng thống Hoa Kỳ năm 1901 và bãi bỏ đề xuất bảo hộ 20 năm. Thay vào đó, Cộng hòa Cuba chính thức được độc lập ngày 20 tháng 5 năm 1902, và vị lãnh đạo cuộc kháng chiến đòi độc lập Tomás Estrada Palma trở thành tổng thống đầu tiên của đất nước. Tuy nhiên, theo hiến pháp mới của Cuba, Hoa Kỳ giữ quyền can thiệp vào các công việc của Cuba và giám sát tài chính cũng như quan hệ ngoại giao của nước này. Theo Tu chính Platt, Cuba cũng đồng ý cho Hoa Kỳ thuê căn cứ hải quân tại Vịnh Guantánamo. Cuba ngày nay không tổ chức lễ kỷ niệm ngày 20 tháng 5 là ngày độc lập, mà là ngày 10 tháng 10, ngày lần đầu tuyên ngôn độc lập được công bố và ngày Castro cùng đội quân của mình tiến vào La Habana, 1 tháng 1 năm 1959 là ngày "thắng lợi cách mạng".

Cuba độc lập nhanh chóng phải đối mặt với những khó khăn do sự tranh giành bè phái và tình trạng tham nhũng trong giới trí thức lãnh đạo và sự lực của chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội sâu sắc hậu quả của chế độ thực dân Tây Ban Nha. Năm 1906, sau cuộc bầu cử lựa chọn người kế tục Estrada Palma gây nhiều tranh cãi, một cuộc nổi dậy vũ trang bùng phát và Hoa Kỳ đã thực hiện quyền can thiệp của mình. Đất nước này được đặt dưới quyền kiểm soát của Mỹ và một vị Thống đốc, Charles Edward Magoon, nhận trách nhiệm quản lý trong ba năm. Thời kỳ cầm quyền của Magoon tại Cuba bị nhiều nhà sử học nước này coi là không thành công, họ cho rằng tình trạng tham nhũng của chính quyền Magoon còn trầm trọng hơn trước đó.[19] Năm 1908, chính phủ tự quản được tái lập khi José Miguel Gómez được bầu làm tổng thống, nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ quyền giám sát các công việc của Cuba. Tuy nhiên, dù những cuộc phản đối bất tuân lệnh chính phủ vẫn diễn ra, chính phủ lập hiến vẫn tồn tại cho tới năm 1925, khi Gerardo Machado y Morales, đã được bầu làm tổng thống, tạm ngưng hiệu lực của hiến pháp. Machado là một người Cuba theo đường lối quốc gia và chế độ của ông được sự ủng hộ rộng rãi của người dân trong nước dù chính phủ vẫn thường sử dụng bạo lực đàn áp sự chỉ trích. Trong thời kỳ cầm quyền của ông, người dân Cuba có quyền kiểm soát rộng rãi hơn với nền kinh tế của họ và các dự án phát triển quốc gia lớn được triển khai. Quyền lực của ông giảm sút sau cuộc Đại Suy thoái, khiến giá các mặt hàng xuất khẩu của Cuba giảm mạnh gây tình trạng nghèo đói khắp nước. Tháng 8 năm 1933, các nhóm trong quân đội Cuba tổ chức một cuộc đảo chính hạ bệ Machado và đưa Carlos Manuel de Céspedes, con trai người sáng lập nhà nước Cuba lên làm Tổng thống. Tuy nhiên, vào tháng 9 một cuộc đảo chính thứ hai do Fulgencio Batista lãnh đạo lật đổ Céspedes dẫn tới sự hình thành chính phủ Ramón Grau San Martín thứ nhất. Chính phủ này chỉ tồn tại 100 ngày nhưng đã đặt những cơ sở cho những thay đổi tự do căn bản của xã hội Cuba và sự khước từ Tu chính Platt.

Năm 1934, Batista và quân đội, phe nắm quyền lực thực sự tại Cuba, thay thế Grau bằng Carlos Mendieta y Montefur. Năm 1940, Batista quyết định tự mình ra tranh cử tổng thống. Lãnh đạo của phái tự do lập hiến Ramón Grau San Martín từ chối ủng hộ ông, và quay sang phía Đảng Cộng sản Cuba, đã phát triển cả về tầm vóc và ảnh hưởng trong thập niên 1930.

Cuba năm 1910

Với sự hỗ trợ của các liên đoàn lao động do những người Cộng sản kiểm soát, Batista được bầu làm Tổng thống và chính quyền của ông đã tiến hành các cải cách xã hội rộng lớn cũng như đưa ra một bản hiến pháp mới tiến bộ hơn. Nhiều thành viên của Đảng Cộng sản giữ các chức vụ trong chính quyền này. Chính quyền Batista chính thức đưa Cuba tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách đồng minh của Mỹ, tuyên chiến với Đế quốc Nhật Bản ngày 9 tháng 12 năm 1941, sau đó với Đức Quốc Xãphát xít Ý ngày 11 tháng 12 năm 1941; Tuy nhiên, Cuba không tham gia nhiều về mặt quân sự vào các cuộc xung đột trong Thế Chiến II. Vào cuối nhiệm kỳ của mình năm 1944, theo hiến pháp Batista lùi bước và Ramón Grau được bầu làm người kế tục ông. Grau tăng chi tiêu chính phủ cho y tế, giáo dục và nhà cửa. Phái tự do của Grau đối lập với những người Cộng sản và Batista phản đối hầu hết các chương trình của Grau.

Năm 1948, Carlos Prío Socarrás lên thay Grau, ông này từng là bộ trưởng lao động trong chính quyền trước và đặc biệt bị những người Cộng sản căm ghét. Prío ít tư tưởng tự do hơn Grau và dưới thời cầm quyền của ông tình trạng tham nhũng đa gia tăng đáng kể. Điều này một phần có nguyên nhân ở sự phục hồi sức mạnh của Hoa Kỳ thời hậu chiến và dòng tiền cờ bạc đổ vào La Habana, vốn đã trở thành một thiên đường cho các hoạt động của mafia. Quả thực Prío đã tiến hành nhiều cải cách lớn như thành lập Ngân hàng Quốc gia và ổn định đồng tiền tệ Cuba. Dòng vốn từ Bắc Mỹ đã trở thành nhiên liệu cho cuộc bùng nổ kinh tế, làm tăng mức sống của nhân dân và tạo ra một tầng lớp trung lưu khá giả tại hầu hết các vùng đô thị, dù hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo trở nên rộng hơn và rõ ràng hơn.

Từ Batista tới Castro

Bài chi tiết: Cách mạng Cuba
Tổng thống Cuba Fulgencio Batista (bị lật đổ ngày 31 tháng 12 năm 1958)

Cuộc bầu cử năm 1952 là cuộc chạy đua giữa ba người. Roberto Agramonte thuộc đảng Chính thống luôn dẫn đầu trong các cuộc thăm dò ý kiến, tiếp theo là tiến sĩ Aurelio Hevia thuộc đảng Auténtico, và ở một khoảng cách khá xa phía sau là Batista, người đang tìm cách quay lại phủ tổng thống. Cả hai đối thủ hàng đầu, Agramonte và Hevia, đều quyết định chỉ định Đại tá Ramon Barquin người đang đảm trách nhiệm vụ ngoại giao tại Washington DC lãnh đạo các lực lượng vũ trang Cuba sau cuộc bầu cử. Barquin từng là một sĩ quan cao cấp, người chỉ huy đội quân chuyên nghiệp và đã hứa hẹn hành động chống tham nhũng. Batista sợ rằng Barquin sẽ cho ông và những người theo ông ra rìa, và khi hiển nhiên rằng Batista có ít cơ hội chiến thắng, ông đã lên kế hoạch một cuộc đảo chính ngày 10 tháng 3 năm 1952 và nắm quyền lực với sự ủng hộ của một phái quốc gia trong quân đội với tư cách "tổng thống lâm thời" trong vòng hai năm. Justo Carrillo đã nói với Barquin tại Washington DC tháng 3 năm 1952 rằng những người thân cận cho ông biết Batista đã có kế hoạch đảo chính chống lại ông; họ nhanh chóng bắt đầu hợp sức tiêu diệt Batista và tái lập nền dân chủ cũng như chính phủ dân sự trong cái saunày sẽ được gọi là La Conspitacion de los Puros de 1956 (Agrupacion Montecristi). Năm 1954, dưới sức ép từ Hoa Kỳ, ông đồng ý tổ chức bầu cử. Partido Auténtico đưa cựu tổng thống Grau ra làm ứng cử viên của mình, nhưng ông này rút lui trong bối cảnh có tin đồn rằng Batista đang âm mưu thao túng bầu cử từ trước. Batista sau đó được tuyên bố làm tổng thống do dân bầu.

Fidel Castro đã lãnh đạo một cuộc tấn công bất thành vào Pháo đài Moncada, tại Santiago de Cuba, và Pháo đài Carlos Manuel de Cespedes nhỏ hơn, vào buổi tối ngày Thánh Ann, ngày 26 tháng 7 năm 1953.[20]

Nhiều tên mafiosi tại Florida Mỹ đã vào Cuba trong thời kỳ cầm quyền của Batista, đáng chú ý là tên trùm Santo Trafficante, Jr. Những hoạt động của chúng gồm điều hành khách sạnsòng bạc hợp pháp cũng như các hoạt động bất hợp pháp tại Florida. Những tên trùm gangster Mỹ đã trở thành những kẻ ủng hộ đáng kể cho Batista trên vũ đài chính trị Cuba, chính phủ nước này làm ngơ cho các hoạt động của chúng để đổi lấy các khoản hối lộ và lại quả.[21][22]

Chiếc xe tải đã được sử dụng trong cuộc tấn công Phủ Tổng thống tại La Habana bởi Directorio Revolucionario (Ban chỉ huy Cách mạng)và Organizacion Autentica năm 1957

Tháng 4 năm 1956, Batista đã ra lệnh đưa Barquin lên làm Tướng và Chỉ huy quân đội. Nhưng đã là quá muộn. Thậm chí sau khi Barquin được thông báo, ông đã quyết định hành động đảo chính nhằm cứu vãn đạo đức các lực lượng vũ trang và của người dân Cuba. Ngày 4 tháng 4 năm 1956, một cuộc đảo chính do một trăm sĩ quan dưới sự chỉ huy của Đại táCol. Barquin (khi ấy là Phó chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Liên Mỹ tại Washington DC và Đại diện Hải quân, Không quân và Bộ binh Cuba tại Hoa Kỳ) diễn ra nhưng không thành công bởi Rios Morejon. Cuộc đảo chính làm tan rã xương sống các lực lượng vũ trang Cuba. Các sĩ quan bị xét xử với mức phạt cao nhất theo Thiết quân Luật Cuba. Barquin bị kết án biệt giam 8 năm. La Conspiración de los Puros khiến nhiều sĩ quan hàng đầu các lực lượng vũ trang bị bỏ tù và các học viện quốc phòng bị đóng cửa. Barquin là người sáng lập La Escuela Superior de Guerra (Cao đẳng Quân sự Cuba) và từng là hiệu trưởng của La Escuela de Cadetes (Viện Quân sự Cuba - West Point). Không có các sĩ quan của Barquin khả năng chiến đấu chống các lực lượng nổi dậy cách mạng đã bị suy yếu nghiêm trọng.

Che Guevara chỉ huy trận Santa Clara, tháng 12 năm 1958

Năm 1956, một đảng của những người nổi dậy, gồm cả Fidel Castro, đổ bộ từ một con tàu từ México và tìm cách khởi động một phong trào kháng chiến vũ trang tại Sierra Maestra. Tại México, đội quân của ông được tăng cường sức mạnh với sự cộng tác của Ernesto Che Guevara người sau này sẽ trở thành một trong những nhân vật nổi bật nhất của cách mạng Cuba và là một trong những đồng minh thân cận của Castro. Castro đã tới México sau khi bị kết án hai mươi năm tù vì tham gia vào cuộc tấn công năm 1953 vào Pháo đài Moncada tại Santiago de Cuba. Castro đã được Batista ân xá sau yêu cầu của Tổng Giám mục Santiago, Monseñor Enrique Perez Serantes và Thượng nghị sĩ Rafael Diaz-Balart, khi ấy là anh/em rể của Fidel Castro. Sau vụ đổ bộ, Batista tung ra một chiến dịch chống phe đối lập, nhưng chỉ làm tăng sự ủng hộ của dân chúng cho phong trào nổi dậy. Với việc các sĩ quan của Barquin đều bị tống giam tại La Prision Modelo de Isla de Pinos ở Vịnh México, quân đội thiếu sự lãnh đạo và ý chí chống phe nổ dậy.

Trong hai năm 1957 và 1958, sự phản kháng Batista ngày càng tăng, đặc biệt trong các tầng lớp trung lưu và thượng lưu và sinh viên, cũng như trong giới tăng lữ Nhà thờ Cơ đốc giáo và tại nhiều vùng nông thôn. Trước yêu cầu mua vũ khí hiện đại từ Hoa Kỳ nhằm đối phó với phe nổi dậy, chính phủ Hoa Kỳ đã áp đặt một lệnh cấm vận vũ khí với chính phủ Cuba ngày 14 tháng 3 năm 1958. Tới cuối năm 1958, nhiều thành viên nổi dậy đã trốn thoát khỏi Sierra Maestra và tổ chức một cuộc tổng khởi nghĩa, được hàng trăm sinh viên và những người khác bất đồng với chính quyền Batista gia nhập. Khi phe nổi dậy chiếm Santa Clara, phía đông La Habana, Batista cho rằng chiến đấu là vô ích và bỏ chạy khỏi đất nước tới Bồ Đào Nha và sau này là Tây Ban Nha. Batista chỉ định Tướng Eulogio Cantillo làm Chỉ huy Quân đội và trao cho ông chỉ thị không được phóng thích Barquin cùng các sĩ quan của ông ta. Tuy vậy, Barquin, người có sự ủng hộ của Hoa Kỳ, đã được giải thoát khỏi Isla de Pinos ngay từ những giờ đầu tiên và được đưa tới Campamento Ciudad Militar Columbia nơi ông thay thế Cantillo và nắm chức Tham mưu trưởng (giữ quyền chỉ huy các lực lượng vũ trang và trên thực tế là Tổng thống Cuba trong một thời gian ngắn) trong một nỗ lực nhằm tái lập trật tự trên đường phố và trong các lực lượng vũ trang. Ông đã đàm phán sự thay đổi mang quyền chỉ huy tính biểu tượng giữa Camilo Cienfuegos, Che Guevara, Raaul và Fidel Castro, sau khi Tòa án Tối cao quyết định rằng Cách mạng là nguồn gốc luật pháp và những đại diện của nó phải được nắm quyền chỉ huy. Với chỉ chưa tới 300 người Camilo nhận quyền từ Barquin mà chỉ riêng tại Columbia đã có 12.000 binh sĩ chuyên nghiệp. Các lực lượng nổi dậy của Castro đã tiến vào thủ đô ngày 3 tháng 1 năm 1959. Một thời gian ngắn sau khi Tiến sĩ Manuel Leo Urrutia lên nắm quyền.

Cuba sau cách mạng

Các nhà lãnh đạo cách mạng Cuba tham gia tuần hành tại thủ đô La Habana, ngày 5 tháng 3 năm 1960

Fidel Castro trở thành Thủ tướng Cuba tháng 2 năm 1959, và trên thực tế đã nắm quyền lực tối cao tại đất nước cho tới khi tạm thời chuyển giao nó cho người em trai, Raul Castro, vì những lý do sức khỏe tháng 7 năm 2006. Trong năm 1959, Castro đã tiến hành nhiều biện pháp như tịch thu bất động sản tư nhân, quốc hữu hóa các cơ sở công cộng, và bắt đầu một chiến dịch thắt chặt quản lý lĩnh vực tư nhân như đóng cửa ngành công nghiệp sòng bạc. Castro cũng đã trục xuất nhiều người Mỹ, gồm cả những tên cướp khỏi hòn đảo này. Những biện pháp đó được chính phủ của ông tiến hành dưới danh nghĩa chương trình mà ông đã vạch ra trong Manifiesto de Montecristi khi còn đang ở tại Sierra Maestra. Tuy nhiên, ông đã không thành công trong việc thực hiện một số những điểm quan trọng của chương trình cải cách, như tổ chức bầu cử theo Luật bầu cử năm 1943 trong vòng 18 tháng cầm quyền đầu tiên và tái áp dụng các điều khoản của Hiến pháp 1940 đã bị tạm ngừng hiệu lực từ thời Batista.

Castro bay tới Washington, DC tháng 4 năm 1959, nhưng không được Tổng thống Mỹ Eisenhower tiếp đón, ông này đã quyết định tham gia một giải golf chứ không gặp Castro.[23] Castro quay trở lại Cuba sau một loạt những cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo châu Phi-Châu Mỹ tại quận Harlem New York, và sau một bài diễn thuyết về "Cuba và Hoa Kỳ" đã được chuyển tới các trụ sở của Hội đồng quan hệ nước ngoài tại New York.[24] Những vụ xử bắn những cựu quan chức của Batista bị kết án tham nhũng, cùng với việc quốc hữu hóa các công ty và sự can thiệp vào báo chí, trên danh nghĩa là ấn bản phụ thuộc các liên đoàn ủng hộ cách mạng,[25] khiến chính phủ Hoa Kỳ đặt ra nghi ngờ về bản chất của chính phủ mới do Fidel Castro thành lập.

Thái độ đối với cuộc cách mạng Cuba cả tại Cuba và tại Hoa Kỳ đều thay đổi nhanh chóng. Việc quốc hữu hóa các công ty thuộc sở hữu Hoa Kỳ (giá trị ước tính năm 1959 là 1 tỷ dollar[cần dẫn nguồn]) nhanh chóng gây ra tình trạng thù địch bên trong chính quyền Eisenhower. Giới thượng lưu Cuba bắt đầu rời khỏi đất nước và hình thành nên một cộng đồng trưởng giả nước ngoài tại Miami. Giới nhà giàu cựu quan chức của Batista cũng như các nhóm tội phạm căm giận chính phủ cách mạng của Castro bởi các tài sản và sòng bạc của họ tại Cuba đã bị quốc hữu hóa trong số lượng những vụ "paredones", ngày càng tăng trong nước. Người Cuba nhanh chóng thành lập một nhóm lobby chính trị hùng mạnh tại Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ dần có thái độ thù địch với Cuba trong năm 1959. Điều này, tới lượt nó lại ảnh hưởng tới động thái của Cátro, ông quay lưng lại với các phái tự do trong phong trào cách mạng và ủng hộ các cá nhân theo đường lối Mác xít cứng rắn trong chính phủ, đáng chú ý nhất là Che Guevara, dù giả thuyết này còn bị tranh luận.

Tháng 10 năm 1959, Castro công khai tuyên bố tình cảm của mình với Chủ nghĩa cộng sản, dù ông vẫn chưa tuyên bố mình là một người cộng sản, trong lúc những phe phái tự do và chống cộng khác trong chính phủ bị loại bỏ. Nhiều người Cuba ủng hộ phương Tây đã bỏ khỏi đất nước gia nhập cộng đồng người Cuba tại Miami. Tháng 3 năm 1960, thỏa thuận viện trợ đầu tiên được ký với Liên bang Xô viết. Trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ coi việc một đất nước có quan hệ thân mật với Liên Xô tại châu Mỹ là một mối đe dọa và lập kế hoạch lật đổ Castro (xem Kế hoạch Cuba). Cuối năm 1960, một lệnh cấm vận thương mại được Mỹ áp đặt. Chính sách thù địch của Mỹ càng làm tăng cường mối quan hệ của Castro với Liên bang Xô viết.

Cùng lúc ấy, chính quyền Mỹ cho phép thực hiện các kế hoạch xâm lược Cuba của những người Cuba lưu vong tại Floria, lợi dụng hoàn cảnh để tiến hành các cuộc nổi dậy chống Castro (xem một số chi tiết và tham khảo tại Chiến tranh chống các băng đảngSự kiện Vịnh Con lợn). Kết quả là sự thất bại thảm hại của nhóm quân này trong Sự kiện Vịnh Con lợn tháng 4 năm 1961. Tổng thống John Kennedy rút lại lời hứa hỗ trợ ném bom của Hoa Kỳ cho lực lượng xâm lược ở những phút cuối cùng và lực lượng chống Castro đã không có được nguồn tài lực cần thiết. Kennedy từ chối can thiệp quân sự trực tiếp từ Mỹ và các lực lượng xâm lược bị đánh tan tác. Sự kiện này khiến Castro nhanh chóng bắt tay làm đồng minh với Liên Xô để có được sự trợ giúp bảo vệ đất nước, ông tuyên bố Cuba là một nhà nước xã hội chủ nghĩa, và ông là một người theo chủ nghĩa Mác xít-Lêninít tháng 5 năm 1961.

Cuba của chủ nghĩa Mác-Lênin

Bức không ảnh chụp từ máy bay trinh sát U-2 tháng 10 năm 1962, kèm theo thuyết minh về các vị trí nghi ngờ đặt lên lửa của Liên Xô, một trong những nguyên nhân dẫn đến chính sách cấm vận của Hoa Kỳ chống Cuba

Một trong những kết quả chiến lược của liên minh Cuba-Xô viết là quyết định đặt các tên lửa đạn đạo tầm trung (MRBMs) Xô viết tại Cuba, gây ra cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, trong đó chính quyền John F. Kennedy đã đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân với Liên bang Xô viết trừ khi họ rút số tên lửa đó. Ý tưởng đặt tên lửa tại Cuba được đưa ra bởi Castro hoặc Khrushchev, nhưng được Liên bang Xô viết đồng ý với lý do rằng Hoa Kỳ có tên lửa đặt tại Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Đông, vì thế đe dọa trực tiếp tới an ninh Liên Xô. Chỉ vài phút trước khi chiếc tàu chở tên lửa Liên Xô chạm tới vành đai phong tỏa của Hoa Kỳ, người Xô viết đã quyết định lùi bước, và ký một thỏa thuận với Kennedy. Tất cả các tên lửa đều được rút khỏi Cuba, nhưng cùng lúc ấy Hoa Kỳ phải rút tên lửa của mình ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ và những nơi khác tại Trung Đông. Tuy nhiên, Kennedy không chịu mất mặt bằng cách thực hiện thỏa thuận ấy ngay lập tức, mà chỉ chịu đồng ý sẽ rút tên lửa sau vài tháng.

Một kết quả khác là Kennedy đồng ý không xâm lược Cuba trong tương lai. Sau cuộc khủng hoảng đó, liên lạc đã được nối lại giữa Hoa Kỳ và Castro, dẫn tới việc trả tự do cho những chiến binh chống Castro đã bị bắt trong Sự kiện Vịnh Con lợn đổi lấy một gói viện trợ. Tuy nhiên, vào năm 1963 quan hệ một lần nữa xấu đi khi Castro đưa Cuba theo một hệ thống hoàn toàn cộng sản đúng hình thức của Liên bang Xô viết. Hoa Kỳ áp đặt một lệnh cấm vận ngoại giao và thương mại hoàn toàn lên Cuba. Ở thời điểm ấy, ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Mỹ Latinh đủ mạnh để khiến lệnh cấm vận có ảnh hưởng mạnh và Cuba buộc phải chuyển tất cả quan hệ thương mại của mình sang Liên Xô và các nước đồng minh của Liên Xô.

Năm 1965, Castro sáp nhập các tổ chức cách mạng của mình với Đảng Cộng sản, và ông trở thành Tổng bí thư đảng này, Blas Roca là Phó tổng bí thư; sau này được kế nhiệm bởi Raúl Castro, người với tư cách Bộ trưởng Quốc phòng và đồng minh thân tín nhất của Fidel đã trở thành nhân vật số hai trong chính phủ từ thời điểm ấy. Vị trí của Raúl Castro càng được củng cố với sự ra đi của Che Guevara để thực hiện mong ước không thành công khuấy động các phong trào nổi dậy tại Congo, và sau đó là Bolivia, nơi ông bị giết hại năm 1967. Osvaldo Dorticós Torrado, Chủ tịch Cuba từ 1959 tới 1976, chỉ mang tính đại diện và có ít quyền lực. Castro đưa ra một hiến pháp mới năm 1976 theo đó ông trở thành Chủ tịch, trong khi vẫn giữ chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Trong thập kỷ 1970, Castro bước ra vũ đài quốc tế với tư cách người phát ngôn hàng đầu của các chính phủ chống chủ nghĩa đế quốc của Thế giới thứ ba. Ở mức độ cụ thể hơn, ông đã cung cấp trợ giúp quân sự quý giá cho những lực lượng ủng hộ Xô viết tại Angola, Ethiopia, Yemen và các điểm xung đột tại châu Phi và Trung Đông khác. Các lực lượng Cuba đóng vai trò quyết định trong việc giúp đỡ các lực lượng MPLA giành chiến thắng trong Nội chiến Angola năm 1975, cũng như cung cấp sự trợ giúp để Nelson Mandela lật đổ chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi. Dù khoản tiền duy trì các hoạt động đó do Liên Xô chi trả, chúng vẫn là một lực cản lớn với nền kinh tế và nhân lực của Cuba. Cuba cũng bị ảnh hưởng bởi sự lệ thuộc của nền kinh tế vào xuất khẩu đường. Người Liên Xô cung cấp thêm viện trợ kinh tế bằng cách mua toàn bộ sản lượng đường do nước này sản xuất, dù Liên Xô có đủ củ cải đường đáp ứng cho nhu cầu của mình. Đổi lại những người Xô viết cung cấp cho Cuba nhiên liệu, bởi nước này không thể mua được nó từ bất kỳ một nguồn nào khác.

Sự phụ thuộc của kinh tế Cuba vào Liên bang Xô viết càng trở nên sâu sắc khi Castro kiên quyết xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa ở Cuba. Mong ước này gồm một hệ thống chăm sóc y tế và giáo dục miễn phí cho toàn bộ người dân. Trong suốt thập niên 1970 và 1980, người Xô viết chấp nhận cung cấp viện trợ để đổi lấy một đồng minh chiến lược ngay cạnh Hoa Kỳ và một giá trị tuyên truyền vô giá về thanh thế to lớn của Fidel Castro tại các nước đang phát triển.

Fidel CastroWojciech Jaruzelski, Tổng tham mưu trưởng quân đội Cộng hòa nhân dân Ba Lan, tháng 5 năm 1972

Tới thập niên 1970, khả năng giữ Cuba bị cô lập của Hoa Kỳ đã sụt giảm. Cuba đã bị trục xuất khỏi Tổ chức các nước châu Mỹ năm 1962 và tổ chức này đã hợp tác với Hoa Kỳ tẩy chay thương mại với Cuba trong thập kỷ sau đó, nhưng vào năm 1975, Tổ chức các nước châu Mỹ dỡ bỏ mọi lệnh cấm vận chống Cuba và cả México cùng Canada đều thiết lập quan hệ thân cận với Cuba. Cả hai nước đều tuyên bố họ hy vọng bồi dưỡng sự tự do hóa tại Cuba bằng cách cho phép các liên hệ thương mại, văn hóa và ngoại giao được nối lại. Castro quả thực có ngừng công khai ủng hộ các phong trào nổi dậy chống các chính phủ Mỹ Latinh, dù các nhóm ủng hộ Castro tiếp tục chiến đấu chống lại nền độc tài khi ấy đang hiện diện ở hầu hết các nước Mỹ Latinh.

Cộng đồng Cuba hải ngoại tại Hoa Kỳ đã phát triển về số lượng, tài sản và sức mạnh và đã chính trị hóa các yếu tố để ngăn cản sự bình thường hóa quan hệ của Hoa Kỳ với Cuba. Tuy nhiên, những nỗ lực của người Cuba hải ngoại nhằm thành lập một phong trào chống Castro bên trong Cuba, không mang lại nhiều thành công. Chủ nhật, ngày 6 tháng 4 năm 1980, 7.000 người Cuba lao vào đại sứ quán Peru tại La Habana xin tị nạn chính trị. Một trong những người đã vào đại sứ quán kể lại những trải nghiệm của mình trong "Những ngày tại Đại sứ quán" (xuất bản mùng 8 tháng 6 năm 2007). Thứ hai ngày 7 tháng 4, chính phủ Cuba cho phép những người Cuba tị nạn trong Đại sứ quán Peru được di cư.[26] Ngày 16 tháng 4 500 công dân Cuba rời Đại sứ quán Peru tới Costa Rica. Ngày 21 tháng 4 nhiều người trong số đó bắt đầu tới Miami bằng thuyền tư nhân và được Bộ ngoại giao Mỹ cứu trợ ngày 23 tháng 4. Tuy nhiên, cuộc di tản bằng tàu vẫn tiếp tục, bởi Castro cho phép bất kỳ ai muốn rời đất nước được ra đi tại cảng Mariel và cuộc di tản này đã được gọi là Sự kiện Mariel. Tổng cộng, hơn 125.000 người Cuba đã di cư sang Hoa Kỳ trước khi làn sóng tàu di cư chấm dứt ngày 15 tháng 6.[27]

Trong thời kỳ này, nhờ sự trợ giúp của khối Xã hội chủ nghĩa và sự tự lực trong nước, kinh tế Cuba phát triển nhanh chóng. Thập niên 1970, kinh tế Cuba tăng trưởng bình quân 7%/năm, nửa đầu thập niên 1980 là 8% mỗi năm. Thu nhập của người dân Cuba đạt mức trung bình cao trên thế giới. Giáo dục, y tế đã đạt mức tương đương các quốc gia phát triển[28]

Cuba thời hậu chiến tranh lạnh

Xe buýt "Con lạc đà Cuba" được cải tiến từ xe đầu kéo, phương tiện giao thông công cộng độc đáo của Cuba thời hậu chiến tranh lạnh

Sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 khiến nền kinh tế Cuba bị ảnh hưởng nặng nề. Nó dẫn tới một cuộc di cư khác tới Hoa Kỳ năm 1994, nhưng cuối cùng đã giảm xuống mức vài nghìn người một năm theo một thỏa thuận Hoa Kỳ-Cuba. Một lần nữa tăng lên trong giai đoạn 2004-06 dù ở mức thấp hơn nhiều so với trước đó. Do hậu quả của sự tan vỡ Liên bang Xô viết, dẫn tới việc Cuba bị mất thị trường xuất khẩu và mất nguồn cung dầu mỏ với giá rẻ, khiến kinh tế Cuba bị sụt giảm tới 35% chỉ trong 4 năm (từ 1989 tới 1993). Nó cũng gây ra, tương tự như tại các quốc gia cộng sản chủ nghĩa khác, một cuộc khủng hoảng lòng tin với những người tin tưởng rằng Liên bang Xô viết là một hình mẫu "xây dựng chủ nghĩa xã hội" thành công và là một mô hình để các nước khác noi theo. Tuy nhiên, tại Cuba những sự kiện ấy chưa đủ để thuyết phục những người Cộng sản Cuba rằng họ phải thay đổi mô hình phát triển đất nước.

Tới cuối thập kỷ 1990, tình hình kinh tế Cuba đã được ổn định. Khi ấy Cuba đã ít nhiều có các mối quan hệ kinh tế với hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh và đã cải thiện quan hệ với Liên minh châu Âu, tổ chức này bắt đầu có quan hệ thương mại và các khoản giúp đỡ cho hòn đảo này. Trung Quốc cũng xuất hiện với tư cách một đối tác tiềm năng mới, thậm chí khi Cuba đã đứng về phía Liên Xô trong cuộc Chia rẽ Trung-Xô trong thập kỷ 1960. Cuba cũng tìm thấy các đồng minh mới là Tổng thống Hugo Chávez tại VenezuelaTổng thống Evo Morales của Bolivia, những nước xuất khẩu dầu và khí tự nhiên lớn. Năm 2014, sau 53 năm bao vây cấm vận, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tuyên bố mong muốn bình thường hóa quan hệ giữa 2 nước. Ngày 20/3/2016 Tổng thống Mỹ Barack Obama bắt đầu chuyến thăm lịch sử tới Cuba. Đây có thể coi là chuyến thăm lịch sử tới Cuba bởi lần đầu tiên trong 88 năm qua mới có một tổng thống đương nhiệm của Mỹ thăm chính thức quốc đảo này.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cuba http://www.caribbeannetnews.com/news-3085--6-6--.h... http://www.cubapictures.com/ http://www.cubapolidata.com/gpc/gpc_council_of_sta... http://abcnews.go.com/Exclusiva/story?id=3568278 http://www.hartford-hwp.com/archives/41/308.html http://www.hartford-hwp.com/archives/41/310.html http://www.historyofcuba.com/history/funfacts/lilw... http://www.indexmundi.com/cuba/exports_commodities... http://www.jumpboxtv.com/ahinama http://www.moroccotimes.com/Paper/article.asp?idr=...